Lăng mộ của vị tướng Nguyễn Huỳnh Đức – Di tích lịch sử cấp Quốc gia

Lăng mộ của vị tướng Nguyễn Huỳnh Đức – Di tích lịch sử cấp Quốc gia

Lịch sử của Việt Nam được viết lên bởi nhiều trang sử rất dài. Một trong số đó chính là vương triều của các vị vua nổi tiếng triều Nguyễn. Như bao triều đại phong kiến khác tại Việt Nam thì vương triều Nguyễn cũng được phát triển và sau đó lụi tàn theo nhịp phế hưng. Một trong những điểm nổi bật nhất của triều Nguyễn theo năm tháng đó chính là những lăng mộ. Lăng tướng Nguyễn Huỳnh Đức, một trong những tướng quan trọng được xây dựng năm 1819. Thế nhưng, đến ngày nay thì ngôi mộ vẫn còn nguyên vẹn.

Lăng mộ được xây dựng tại TP Tân An, Long An. Hiện đây là một trong những Di tích lịch sử cấp quốc gia được nhà nước phong tặng. Hãy để SKP giới thiệu về lăng mộ này theo dòng chảy của lịch sử để độc giả có thể hiểu rõ nhất trong bài viết dưới đây.

Giới thiệu danh tướng Nguyễn Huỳnh Đức

Khu lăng mộ của danh tướng Nguyễn Huỳnh Đức (1748 – 1819) có diện tích khoảng 1.300 m2. Được xây dựng ở phường Khánh Hậu, TP Tân An, Long An. Ông tên thật là Huỳnh Tường Đức, theo phò chúa Nguyễn Ánh một thời gian dài. Đồng thời, ông là người đã đạt được nhiều thành tích quan trọng nên được vua ban cho họ vua.

Nguyễn Ánh nhiều lần bị quân Tây Sơn đánh bại, ông vẫn trung thành theo đuổi quân cứu nước. Một lần, anh bị bắt bởi quân đội của Tây Sơn. Nguyễn Huệ muốn được làm người hầu, nhưng vì mến tài và đức nên từ chối. Vì thế, sau khi lánh nạn được 3 năm thì trốn sang với chúa Nguyễn.

Khu mộ vị tướng 'khai quốc công thần' triều Nguyễn

Khi Nguyễn Ánh lên ngôi đã lấy hiệu là vua Gia Long. Riêng Nguyễn Huỳnh Đức, với những đóng góp to lớn mà ông đã dành cho đất nước thì ông đã được bổ nhiệm vào chức Quận công dưới niên hiệu vua Gia Long. Sau đó, ông được phong làm Tổng đốc Bắc Thành. Sáu năm sau, ông giữ chức Tổng đốc Gia Định và cai quản toàn bộ miền nam. Ông được thế giới gọi là “Hổ tướng” và là một trong những bậc khai quốc công thần của triều Nguyễn.

Cảnh quan của khu mộ vị tướng ‘khai quốc công thần’ triều Nguyễn

Cảnh quan chính phía nam của lăng Nguyễn Huỳnh Đức, được xây dựng bằng đất sét đỏ và vữa trộn. Mặt bằng của tòa nhà là hình chữ nhật, rộng 19 m và dài 35 m. Xung quanh lăng là những cây sứ cổ thụ tạo nên vẻ uy nghiêm cho vị vua cha nghiêm trang.

Án ngữ ở cổng Bắc Lăng là bức bình phong đất sét đỏ cao 3m có chạm nổi hoa văn búp mai. Con đường chính từ bức bình phong đến lăng mộ là 17 m. Nghĩa trang bằng đá nguyên khối có chiều rộng 8,7 m, chiều dài 12 m. Kết cấu kiến ​​trúc từ ngoài vào trong gồm: cổng lăng, bình phong, đền thờ, bia mộ, bình phong và hậu. Xung quanh tạo thành một bức tường, và các các trụ biểu búp sen.

Bia mộ được tạc bằng đá Ngũ Hành Sơn. Sở hữu chiều cao là1,55 m và rộng 0,9 m chạm nổi hoa văn tinh xảo hình mặt trời, hoa lá, rồng phượng… Phía sau tấm bia là mộ thi hài Nguyễn Huỳnh Đức, lăng có chiều dài 3,4 m, rộng 2,7 m, cao 0,3 m. Phía sau lăng có kính chắn gió phía sau, đóng cửa xây lăng. Trên bình phong hậu có bài minh do chính vua Gia Long ngự phê duyệt. Điều này để ghi nhớ công lao của một đại thần đã cùng mình vào sinh ra tử.

Đền thờ Nguyễn Huỳnh Đức được xây dựng

Cách mộ khoảng 200 m chính là đền thờ Nguyễn Huỳnh Đức. Ở phía cổng vào đền thờ nằm hướng ra con đường chính là đường mang tên ông. Đền thờ Nguyễn Huỳnh Đức được gia đình xây dựng từ năm 1959 để tiện việc thờ cúng.

Đền thờ Nguyễn Huỳnh Đức được xây dựng

Ngôi đền mới có bốn cột, hai tầng, mái lợp ngói ta, cửa gỗ nhìn về hướng Đông. Bên trong đền có hương án chạm rồng, phượng, sơn son thếp vàng. Đặc biệt, phía trên là bức họa của thần Nguyễn Đức Việt, vẽ năm 1802. “Hổ tướng”, như ghế ngồi, lệnh khánh thành, cửa võng … cùng các sắc phong, liễn đối do các vua Nguyễn ban tặng.

Chiếc mũ trùm được Tướng Nguyễn Huỳnh Đức sử dụng suốt cuộc đời được bảo quản cẩn thận trong hộp kính trong điện thờ. Võng là phương tiện đi lại của quan lại thời phong kiến. Trong triều Nguyễn, không được phép sử dụng ghế kiệu. Bởi kiểu chỉ dành cho vua chúa đi trong quan trường, và chỉ sử dụng võng có mũ trùm đầu.

Chiếc khánh lệnh mà vua Gia Long ban tặng cho Nguyễn Huỳnh Đức năm 1819 vẫn được gia tộc ông bảo quản và giữ gìn một cách cẩn thận.

Khu lưu niệm và lễ tân nằm cạnh Đền thờ Nguyễn Huỳnh Đức. Ở đây có treo những bức tranh về lăng, có những câu chuyện trên đó, những câu chuyện cổ về thân thế, nghề nghiệp… Vị tướng khai quốc công thần triều đại nhà Nguyễn. Năm 1993, tất cả các di tích văn hóa nói trên đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là “Di tích lịch sử cấp quốc gia”.

Nguồn: didulich.net

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Sự kiện - Lễ hội